Lấy lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự

Lấy lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự

Lấy lời khai của người làm chứng là biện pháp điều tra được Điều tra viên, hoặc Kiểm sát viên thực hiện bằng cách trực tiếp gặp và hỏi người đã mục kích hoặc có những thông tin về các tình tiết của vụ án hình sự hoặc về người thực hiện hành vi phạm tội để thu thập những thông tin cần thiết cho việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự.

Điều kiện lấy lời khai của người làm chứng

Căn cứ tại Khoản 1 Điều 186 bộ Luật Hình sự 2015 quy định về việc lấy lời khai:

  • Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của người đó.
  • Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc, trao đổi với nhau trong thời gian lấy lời khai.
  • Trước khi lấy lời khai, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản.
  • Trước khi hỏi về nội dung vụ án, Điều tra viên phải hỏi về mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của người làm chứng. Điều tra viên yêu cầu người làm chứng trình bày hoặc tự viết một cách trung thực và tự nguyện những gì họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi.
  • Trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng. Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành theo quy định tại Điều này.

Khi nào thì việc lấy lời khai của người làm chứng không được xem là chứng cứ trong vụ án hình sự?

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, lời khai, lời trình bày là một trong những nguồn chứng cứ được dùng làm căn cứ giải quyết các vụ án hình sự. Theo đó, đối với người làm chứng, họ trình bày những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra nhằm làm rõ các tình tiết còn uẩn khúc, chưa rõ ràng trong hồ sơ vụ án.

Lấy lời khai của người làm chứng không được xem là chứng cứ khi nào?

Thứ nhất, nguồn chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015 gồm:
“Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a) Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;
c) Dữ liệu điện tử;
d) Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g) Các tài liệu, đồ vật khác“.

Tuy nhiên, không phải trường hợp nào lời khai của người làm chứng cũng có giá trị được xem là chứng cứ. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 Điều 91 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

“Điều 91. Lời khai của người làm chứng

  1. Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra.
  2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó”.
Lấy lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự

Lấy lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự

Trên thực tế, người làm chứng có thể trực tiếp chứng kiến vụ án, trực tiếp biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án mà không thông qua một khâu trung gian nào hoặc họ có thể được nghe người khác kể lại. Thông qua việc xác định nguồn gốc của những lời khai này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đề ra được biện pháp thu thập thêm chứng cứ, kiểm tra, đánh gia chứng cứ một cách hợp lý. Thông thường, lời khai của người làm chứng có tính trung thực, khách quan cao, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật của vụ án.(Xem thêm: Tố tụng hình sự là gì? )

Tuy nhiên, nếu tất cả những tình tiết do người làm chứng trình bày đều được dùng làm chứng cứ mà không cần xem xét đến việc người làm chứng biết được những tình tiết đó bằng cách nào thì lời khai thu thập được không đảm bảo được đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ.(Xem thêm: Quy trình khởi tố vụ án hình sự diễn ra như thế nào? )

Lời khai của người làm chứng trong trường hợp này có thể sẽ không đảm bảo được tính xác thực của chứng cứ. Bởi lẽ, có những trường hợp người làm chứng khai báo thông tin không đúng sự thật: có thể trên thực tế có những tình tiết như người làm chứng khai báo nhưng đã bị bóp méo theo ý chí chủ quan của người làm chứng hoặc không hề có tình tiết đó nhưng người làm chứng đã cố tình xuyên tạc hay làm giả để vu khống hoặc có thể là bao che cho người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên thực tế, do tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: khả năng tiếp nhận thông tin của người làm chứng, mối quan hệ giữa người làm chứng với người phạm tội hoặc người bị hại, … mà lời khai của họ có thể dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu tính chính xác, khách quan nếu họ không nói rõ được vì sao họ biết được những tình tiết đó.(Xem thêm: Chỉ định người bào chữa theo quy định của Luật Hình sự )

Do đó, khi lấy lời khai của người làm chứng, việc xác minh lý do họ biết được tình tiết đó có thể được coi là một điều bắt buộc trong quá trình cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

Trường hợp lấy lời khai đối với người làm chứng dưới 16 tuổi

Điều luật quy định, phải mời cha mẹ, người đại diện hợp pháp hoặc thầy cô giáo của người đó tham dự. Sự chứng kiến của những người nói trên trong khi lấy lời khai những người làm chứng dưới 16 tuổi nhằm tạo điều kiện cho người làm chứng bình tĩnh khai báo đúng sự thật và tạo nên mối quan hệ tin cậy giữa điều tra viên với người làm chứng. Cha, mẹ, người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của người mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mời làm chứng phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Sự có mặt của cha mẹ, người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy cô giáo của người làm chứng dưới 16 tuổi là nghĩa vụ luật định.

Để bảo đảm cho việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều tra của Viện Kiểm sát, Điều luật quy định, trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng. Sự cần thiết Kiểm sát viên lấy lời khai của người làm chứng là do tình tiết khách quan của vụ án và những yêu cầu giám sát hoạt động điều tra, bảo đảm việc tiến hành tố tụng hình sự được đúng pháp luật tố tụng hình sự. Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành theo những trình tự thủ tục quy định chung như với hoạt động lấy lời khai người làm chứng mà Điều tra viên tiến hành.

Mọi thông tin tư vấn hỗ trợ về dịch vụ vui lòng liên hệ:

CÔNG TY LUẬT TNHH WINLEGAL

Trụ sở chính (văn phòng giao dịch): Lô 09 khu N1 ngõ 1 đường Nguyễn Hoàng Tôn, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội

Điện thoại: 0246.29.33.222

Email:  [email protected]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *