Theo nguyên tắc, tất cả hành vi phạm tội phải được đưa ra xét xử kịp thời, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy một người đang chấp hành một bản án vẫn có thể bị phát hiện hành vi phạm tội mà họ thực hiện trước đó hoặc có thể họ sẽ thực hiện một hành vi phạm tội mới.
Quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
- Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này (khoản 1 Điều 56 BLHS năm 2015)
Trong thực tế thì có thể một người thực hiện hai hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội lần đầu có thể bị xét xử sau hành vi phạm tội thứ hai hoặc ngược lại. Vì vậy, quy định tại khoản 1 Điều 56 BLHS năm 2015 có thể hiểu là khi một người bị xét xử về một hành vi phạm tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật mà sau đó người này lại bị xét xử về một tội khác và hành vi phạm tội lần sau được thực hiện trước khi có bản án đã có hiệu lực pháp luật thì tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang xét xử. Sau đó, tổng hợp với hình phạt của bản án trước đã có hiệu lực pháp luật. Thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước sẽ được trừ vào hình phạt chung sau khi đã tổng hợp hình phạt. Thẩm quyền tổng hợp hình phạt là của hội đồng xét xử đang xét xử vụ án.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay vẫn còn cách hiểu khác nhau về thời điểm được coi là “đang phải chấp hành một bản án”. Cách hiểu thứ nhất là thời điểm người đó thực tế đã và đang chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Cách hiểu thứ hai là chỉ cần khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới (khoản 2 Điều 56 BLHS năm 2015)
Khác với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 BLHS năm 2015, việc tổng hợp hình phạt theo khoản 2 Điều 56 BLHS năm 2015 là khi một người đã bị kết án về một hành vi phạm tội và đang chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật mà sau đó người này tiếp tục có hành vi phạm tội khác.
- Trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp (khoản 3 Điều 56 BLHS năm 2015)
“Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”
Việc tổng hợp hình phạt theo khoản 1 và khoản 2 Điều 56 BLHS năm 2015 có một điều kiện bắt buộc chung là người bị Tòa án xét xử phải là người đang chấp hành một bản án, tức là đã có một bản án có hiệu lực pháp luật kết tội người đó về một tội nào đó. Cho nên quy định tại khoản 3 Điều 56 BLHS năm 2015 là để tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu như khi xét xử Tòa án không thể tổng hợp hình phạt theo khoản 1 và khoản 2 Điều 56 BLHS năm 2015. Thẩm quyền tổng hợp hình phạt là của Chánh án Tòa án mà không phải là Hội đồng xét xử.
Nguyên tắc tổng hợp hình phạt
Tổng hợp hình phạt là quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt, bao gồm quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội theo quy định tại Điều 50 Bộ luật Hình sự và quyết định hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt là hoạt động quan trọng của Tòa án được tiến hành đối với người bị kết án phạm từ hai tội trở lên và đối với trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hoặc chấp hành chưa xong một bản án lại bị xét xử về một tội xảy ra trước hoặc sau khi có bản án đó. Việc tổng hợp hình phạt được tiến hành trên cơ sở các hình phạt cùng loại và khác loại, tổng hợp hình phạt chính và hình phạt bổ sung theo những nguyên tắc nhất định của luật hình sự.
Hiểu theo cách chung nhất thì tổng hợp hình phạt chính là xác định hình phạt chung cho người bị tuyên nhiều tội và việc xác định hình phạt chung có thể là một trong các trường hợp sau: người phạm tội bị xử cùng một lần về nhiều tội và do vậy bị tuyên nhiều hình phạt khác nhau và kèm theo có thể có các hình phạt bổ sung. Để có thể thi hành án được, Tòa án phải tổng hợp các hình phạt chính cũng như các hình phạt bổ sung thành hình phạt chung; người phạm tội đã có bản án kết tội kèm theo hình phạt và lại bị tuyên tiếp bản án khác cùng hình phạt kèm theo. Để có thể thi hành án được, Tòa án phải tổng hợp hình phạt đã tuyên (có thể đang chấp hành hoặc chưa chấp hành) với hình phạt mới tuyên thành hình phạt chung.
Các quy định trên cho thấy, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được thực hiện theo những cách thức khác nhau do thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, cách thức tổng hợp cũng có những ảnh hưởng nhất định đến TNHS của người bị kết án. Cụ thể, ở trường hợp thứ nhất người đang chấp hành một bản án lại bị xét xử về một hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi có bản án này sẽ có lợi hơn so với trường hợp thứ hai. Bởi lẽ, trường hợp này tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử rồi tổng hợp hình phạt chung trên cơ sở hình phạt của hai bản án mà theo quy định tại Điều 50 Bộ luật Hình sự thì hình phạt chung không được quá 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn, sau khi cộng để tổng hợp theo quy định của Điều 50 Bộ luật Hình sự rồi mới trừ đi phần hình phạt đã chấp hành của bản án trước để tính thời hạn còn lại của hình phạt chung.
Bài viết trên đây đã nói ngắn gọn quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án mà bạn quan tâm. Với đội ngũ Luật sư, chuyên viên nhiều năm kinh nghiệm, Công ty Luật TNHH Winlegal cung cấp dịch vụ pháp lý theo quy định của pháp luật, đảm bảo triển khai nhanh, uy tín cho khách hàng. Mọi nhu cầu cần hỗ trợ tư vấn pháp lý xin vui lòng liên hệ:
CÔNG TY LUẬT TNHH WINLEGAL
Lô 09 khu N1 ngõ 1, đường Nguyễn Hoàng Tôn, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, TP. Hà Nội
Điện thoại: 0246.29.33.222/0976.718.066
Chuyên viên: Ms. Thương